Blog Archives

Chân dung các nhà hoá học nhận giải nobel hoá học

Giải thưởng Nobel Hóa học

Nói về gia đình huyền thoại Curie là phải nói đến các giải thưởng Nobel , mà nói đến giải Nobel mà không nói về lịch sử của giải thưởng và người sáng lập nên giải thưởng Alfred Nobel. thì thật là thiếu sót . happy

ALFRED NOBEL

Alfred Nobel sinh ngày 21/10/1833 tại Stockholm, Thuỵ Điển, trong một gia đình có nhiều thành viên làm kỹ sư. Khi lên 9 tuổi, ông theo gia đình tới Nga. Tại đó, ông và anh em trai được các gia sư dạy những bài học đầu tiên về lòng nhân đạo và khoa học tự nhiên. Khi còn trẻ, ông đi nhiều nơi và thông thạo 5 ngôn ngữ. Nobel quan tâm tới văn học. Ông đã viết một số tiểu thuyết, thơ và kịch vào thời gian rỗi. Vào năm 1960, ông bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với nitroglycerin trong nhà máy của cha đẻ, Immanuel Nobel.

Nobel phát đã thử nhiều cách để ổn định loại vật liệu không ổn định này. Cuối cùng ông phát hiện trộn nitroglycerin với một loại bột mịn, xốp có tên kieselguhr là hiệu quả nhất. Ông đặt tên cho hỗn hợp trên là dynamite và nhận được bằng sáng chế vào năm 1867. Nobel xây dựng nhà máy khắp thế giới để sản xuất dynamite và các loại thuốc nổ khác. Các công ty xây dựng và khai thác mỏ cũng như quân đội cần rất nhiều loại thuốc nổ tương đối an toàn này. Dynamite đã mang lại cho Nobel nhiều tiền. Những nghiên cứu khác của ông đã cung cấp thông tin giá trị về sự phát triển của cao su nhân tạo, da, tơ và đá quý.

GIẢI THƯỞNG CAO QUÝ : NOBEL

Vào ngày 27/11/1895, Nobel ký di chúc cuối cùng tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển-Na Uy ở Paris, Pháp. Ông qua đời do mắc bệnh xuất huyết não tại nhà riêng ở San Remo, Italia vào ngày 10/12/1896. Ông để lại một khoản tiền 9 triệu USD trong di chúc. Lãi suất của nó sẽ được sử dụng làm phần thưởng cho những người mà nghiên cứu của họ có lợi nhất cho nhân loại.

Hiệp hội Nobel được thành lập vào năm 1900 theo di chúc của Alfred Nobel. Đó là một tổ chức tư nhân quản lý các tài sản mà Nobel di chúc lại làm phần thưởng cho những cá nhân đoạt giải Nobel hoá học, vật lý, tâm lý học hoặc y học, văn học và hoà bình.

Nobel là giải thưởng quốc tế đầu tiên, vinh dự nhất, được trao hàng năm theo ý nguyện Alfred Bernhard Nobel – nhà hoá học, kỹ sư và đồng thời là một nhà tư bản người Thuỵ Điển – cho những cá nhân đã có đóng góp nổi bật nhất trong lĩnh vực vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học; cá nhân đóng góp nhiều nhất cho hoà bình thế giới và người đã viết tác phẩm văn học xuất sắc nhất. Lễ trao giải chính thức diễn ra vào ngày 10/12 hàng năm – ngày Nobel qua đời. Tuy nhiên, tên của người giành giải thưởng được công bố vào tháng 10 bởi các tổ chức khác nhau.

Bổ sung 1 thông tin thú vị : Sở dĩ có giải Nobel Văn Học nhưng không có giải Nobel Toán học vì hồi còn nhỏ Nobel yêu thich Khoa học và Văn Học và đã từng có ý định theo nghiệp văn chương ( còn Toán học thì ông không có hứng thú ) , may sao cuối cùng ông đã có 1 quyết định sáng suốt là theo nghiệp Khoa học.
Nguyên nhân Toán học không có giải Nobel :
Giai thoại cho rằng Alfred Nobel, vốn độc thân suốt đời, đã từ chối tôn vinh các nhà toán học, vì e rằng một ngày nào đấy, phần thưởng sẽ về tay Gosta Magnus Mittag – Leffler, một nhà toán học Thụy Điển, đã ăn cắp trái tim của nàng Sophie Hess, nhân tình của ông.
Để lấy lại công bằng cho một khoa học cơ bản, giải thưởng cao quý nhất dành cho toán học mang tên Fields đã ra đời năm 1936 ở Toronto, Canada, theo sáng kiến của Giáo sư John Charles Fields. Giải Fields trao 4 năm một lần, trị giá khá khiêm tốn: 1.500 euro.

Tiến trình lựa chọn những người được giải

Việc lựa chọn người giành giải tưởng bắt đầu vào đầu mùa thu của năm trước khi các tổ chức trao giải mời hơn 6.000 người khắp thế giới đề cử cá nhân xứng đáng nhận các giải Nobel. Có khoảng 1.000 người đề cử cho mỗi giải thưởng. Họ là những người đã từng nhận giải Nobel, thành viên của chính tổ chức trao thưởng, các chuyên gia trong lĩnh vực vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học, các quan chức và thành viên của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Người được mời phải đề cử bằng văn bản, nêu rõ lý do lựa chọn. Các cá nhân không thể tự đề cử (trái ngược hoàn toàn với giải Ig Nobel).

Văn bản đề cử phải được trình lên các uỷ ban Nobel trước ngày 31/1 của năm trao giải. Uỷ ban Nobel do 4 tổ chức trao giải lập ra. Thường có khoảng 100-250 người được đề cử cho mỗi giải. Vào ngày 1/2, 6 Uỷ ban Nobel – mỗi uỷ ban quyết định một loại giải thưởng – bắt đầu xem xét các văn bản đề cử mà họ nhận được. Có hàng nghìn người, chủ yếu là chuyên gia bên ngoài, tham gia cùng với các uỷ ban để quyết định tính sáng tạo và tầm quan trọng liên quan tới đóng góp của người được đề cử.

Vào tháng 9 và đầu tháng 10, các uỷ ban Nobel sẵn sàng đệ trình ý kiến lựa chọn của họ lên Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển và các tổ chức trao thưởng khác. Không phải lúc nào các tổ chức trao thưởng cũng làm theo sự tiến cử của uỷ ban. Các phiên họp và bỏ phiếu trong các tổ chức trao giải được giữ bí mật ở mọi khâu. Chỉ có kết quả được thông báo công khai. Quyết định cuối cùng của các tổ chức phải được đưa ra trước ngày 15/11 và không thể thay đổi. Giải thưởng chỉ được trao cho các cá nhân, ngoại trừ giải Nobel Hoà Bình. Nobel Hoà bình có thể được trao cho một tổ chức.

Theo điều lệ của Hiệp hội Nobel, thông tin đề cử sẽ không được tiết lộ, dù là công khai hoặc bí mật, trong thời gian 50 năm. Không thể đề cử một cá nhân sau khi người đó đã chết. Kể từ năm 1974, giải thưởng Nobel chỉ có thể được trao cho một người đã chết trong trường hợp cá nhân đó đã được chọn là người nhận giải của năm vào thời điểm còn sống song qua đời trước lễ trao giải vào ngày 10/12. Sự ủng hộ chính thức, dù là ngoại giao hay chính trị, cho một người nào đó không có tác động tới tiến trình lựa chọn bởi các tổ chức trao giải độc lập với nhà nước.

Giải thưởng

Mỗi giải thưởng bao gồm một huy chương vàng, một bằng khen và một khoản tiền. Số tiền phụ thuộc vào thu nhập của Hiệp hội Nobel. Ban đầu, hơn ba người có thể cùng nhận một giải Nobel mặc dầu điều này chưa bao giờ xảy ra. Điều lệ của Tổ chức Nobel được sửa đổi vào năm 1968, hạn chế chỉ có 3 người đồng nhận một giải thưởng. Trong trường hợp đó, mỗi người có thể nhận 1/3 khoản tiền hoặc 2 người có thể chia nhau 50% số tiền thưởng trong khi người thứ ba nhận 50% còn lại. Thỉnh thoảng một giải Nobel bị giữ lại cho tới năm sau. Nếu chưa được trao, số tiền thưởng sẽ được trả lại quỹ. Do vậy, hai giải thưởng cùng loại (chẳng hạn 2 giải vật lý) có thể được trao trong một năm.

Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận trước một thời điểm nhất định, số tiền thưởng sẽ được trả vào quỹ. Trong quá khứ, đã có trường hợp người giành giải từ chối nhận phần thưởng và chính phủ cấm công dân nước họ nhận thưởng. Khi đó, bên cạnh tên của người nhận giải trong danh sách những người giành giải Nobel sẽ có dòng chữ ”từ chối nhận giải”.

Động cơ dẫn tới hành động từ chối nhận giải Nobel có thể khác nhau song lý do thực sự chủ yếu là áp lực bên ngoài. Chẳng hạn vào năm 1937, Adolf Hitler cấm người Đức nhận giải Nobel trong tương lai bởi ông ta tức giận khi Giải Nobel Hoà bình 1935 được trao cho nhà báo chống phát xít Carl von Ossietzky. Vào thời điểm đó, Carl von Ossietzky là tù chính trị tại Đức. Trong một số trường hợp, người từ chối giải thích và chỉ nhận huy chương vàng cùng với bằng khen. Giải Nobel vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học ít gây tranh cãi nhất. Do bản chất, Nobel văn học và hoà bình gây tranh cãi nhiều nhất. Cho tới nay, giải Nobel không được trao vào năm 1940, 1941 và 1942. Giải Nobel văn học không được trao vào năm 1914, 1918 và 1943.

Cụ thể hơn về giải thưởng :
Một tấm bằng, Huy chương Nobel do Erik Lindberg thực hiện năm 1902: chân dung Nobel trên nền phúng dụ Tự nhiên và Khoa học, một món tiền (thay đổi tùy theo lãi của vốn Quỹ Nobel). Theo tính toán của Nobel, những năm đầu, mỗi giải thưởng tương đương 15 năm lương của một giáo sư đại học. Năm 1948, mỗi giải trị giá 32.000 USD. Năm 1980, 210.000 USD. Cuối những năm 1990 là 1 triệu USD. Và năm nay là 1,36 triệu USD.

Giải Nobel đã thực sự công bằng hay chưa ?

Người ta có thể tiếc là trong hơn 700 người được tặng giải Nobel hơn 100 năm qua, đã không có mặt Freud, Proust hay Gandhi. Ảnh hưởng của Freud là rất lớn không chỉ về mặt y học và xã hội mà cả về văn hóa, đặc biệt là văn chương. Gandhi thì 5 lần vào chung kết Nobel Hòa bình nhưng vẫn không đoạt giải. Thuyết tương đối của Albert Einstein được công bố năm 1905. Nhưng mãi năm 1921, Einstein mới được Nobel Vật lý về một công trình ít quan trọng hơn. Ấy là chưa nói tới Lev Tolstoi khổng lồ…

(Sưu tầm : báo điện tử http://vnn.vnhttp://khoahoc.com

Những kỷ lục về giải thưởng Nobel

Năm 1895, nhà bác học người Thuỵ Điển Alfred Bernhard Nobel lập di chúc nêu rõ: toàn bộ gia sản ông để lại trị giá gần 70 triệu cuaron Thụy Điển sẽ được lập thành quỹ cho một loại giải thưởng hàng năm mang tên ông, để trao cho “những ai, trong năm trước, được đánh giá có đóng góp thiết thực nhất cho nhân loại”.

Sau khi A. B. Nobel qua đời ngày 10-12-1896, theo nguyện ước của ông, Tổ chức Giải thưởng Nobel được thành lập năm 1900.

Giải thưởng Nobel đầu tiên được trao vào năm 1901.

Các giải thưởng Nobel được quyết định trao vào giữa tháng 10 hàng năm và Lễ trao huy chương và tấm séc diễn ra vào ngày 10-12 cùng năm, ngày kỷ niệm Nhà bác học A. B. Nobel qua đời.

Theo quy định, Giải thưởng Nobel được trao cho những nhà vật lý, nhà hoá học, thầy thuốc, nhà văn và những nhà hoạt động vì hoà bình được Hội đồng giải thưởng Nobel coi là lỗi lạc nhất thế giới trong năm.

Đến nay, Tổ chức giải thưởng Nobel đã có lịch sử 106 năm (1900-2006). Trong 106 năm qua, giải thưởng Nobel đã có nhiều kỷ lục được xác lập.

Những nhà khoa học trẻ tuổi đoạt giải thưởng Nobel (cho từng môn):

– Giải thưởng Nobel Vật lý:

+ William Lawrence Bragg, 25 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Vật lý năm 1915);
+ Marie Curie Sklodowska, 36 tuổi (đoạt Giải thưởng Nobel Vật lý năm 1903).

Giải thưởng Nobel Sinh học và Y học:

+ Frederick Grant Banting, 32 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học năm 1923).

– Giải thưởng Nobel Hoá học:

(Ảnh: oregonstate.edu)+ Koichi Tanaka, 33 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Hóa học năm 2000);
+ Frédéric Joliot, 35 tuổi và Irène Curie Joliot, 38 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Hóa học năm 1935).

– Giải thưởng Nobel Hòa bình:

+ Rigoberta Menchu Tum, 33 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1992).

– Giải thưởng Nobel Văn học:

+ Rudyard Kipling 42, tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1907).

Những nhà khoa học cao tuổi đoạt giải thưởng Nobel (cho từng môn):

– Giải thưởng Nobel Sinh học và Y học:

+ Francis Peyton Rous, 87 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học năm 1966);
+ Karl von Frisch, 87 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học năm 1973).

– Giải thưởng Nobel Vật lý:

+ Vitaly L. Ginzburg, 87 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Vật lý năm 2003);
+ Pyotr L. Kapitsa, 84 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Vật lý năm 1978).

– Giải thưởng Nobel Hòa bình:

+ Ferdinand Buisson, 86 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1927).

– Giải thưởng Nobel Văn học:

+ Theodor Mommsen 85 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1902).

– Giải thưởng Nobel Hóa học:

+ Charles J. Perdersen, 83 tuổi (đoạt giải thưởng Nobel Hóa học năm 1987).

Tuổi trung bình của các nhà khoa học đoạt giải thưởng Nobel (cho từng môn):

Giải thưởng Nobel Hóa học: Trung bình 54,24 tuổi

Giải thưởng Nobel Văn học: Trung bình 63,68 tuổi

Giải thưởng Nobel Hòa bình: Trung bình 62,31 tuổi

Giải thưởng Nobel Sinh học và Y học: Trung bình 55,88 tuổi

Giải thưởng Nobel Vật lý: Trung bình 51,22 tuổi

* Trung bình tổng cộng cho tất cả các môn: 57,46 tuổi

Những đôi vợ chồng đoạt nhiều giải thưởng Nobel

Nhà nữ khoa học Marie Curie đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1903) và giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1911) Ảnh:
Nhà nữ khoa học Marie Curie đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1903) và giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1911) – (Ảnh: achievement.org)

Gia đình Curie: Nhà khoa học Pierre Curie và vợ là nhà khoa học Marie Curie đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1903).

Gia đình Joliot: Nhà khoa học Frédéric Joliot và vợ là nhà khoa học Irène (con gái của Pierre và Marie Curie) đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1935).

Gia đình Ferdinand: Nhà khoa học Karl Ferdinand và vợ là nhà khoa học Gerty Theresa đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1947).

Gia đình Myrdal: Nhà khoa học Gunnar Myrdal đoạt giải thưởng Nobel Kinh tế (năm 1974) và vợ là nhà khoa học Alva Myrdal đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1982).

Những nhà khoa học và con rể đoạt giải thưởng Nobel:

– Nhà nữ khoa học Marie Curie đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1903), giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1911) và con rể là nhà khoa học Frédéric Joliot đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1935).

– Nhà khoa học Heinrich Wieland đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1927) và con rể là nhà khoa học Feodor Lynen đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1964).

– Nhà khoa học John Howars Northrop đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1946) và con rể là nhà khoa học Frederic Chapman Robbins đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1954).

– Nhà khoa học Peyton Rous đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1966) và con rể là nhà khoa học Alan Hodgkin đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1963).

Anh em đoạt giải thưởng Nobel:

Nhà khoa học Jan Tinbergen đoạt giải thưởng Nobel Kinh tế (năm 1969) và em trai là nhà khoa học Nikolaas Tinberge đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1973).

Cha và con, mẹ và con cùng đoạt giải thưởng Nobel:

Gia đình Thomson: Nhà khoa học Joseph Thomson đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1906) và con là nhà khoa học George Paget Thomson đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1937).

Gia đình Curie: Nhà nữ khoa học Marie Curie đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1911) và con là nhà khoa học Irène Curie đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1935).

Gia đình Bragg: Nhà khoa học William Henry Bragg và con là nhà khoa học William Lawrence Bragg cùng đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1915).

Gia đình Bohr: Nhà khoa học Niels Bohr đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1922) và con là nhà khoa học Aage Bohr đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1975).

Gia đình Siegbahn: Nhà khoa học Mann Siegbahn đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1924) và con là nhà khoa học Kai Siegbahn đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1981).

Gia đình Euler: Nhà khoa học Hans von Euler – Chelpin đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1929) và con là nhà khoa học Ulf von Euler đoạt giải thưởng Nobel Sinh học và Y học (năm 1970).

Gia đình Kornberg: Nhà khoa học Arthur Kornberg đoạt giải thưởng Nobel Y học (năm 1959) và con trai là nhà khoa học Roger Kornberg đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 2006).

Những nhà khoa học 2 lần đoạt giải thưởng Nobel:

– Marie Curie:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1903) cùng với chồng Pierre Curie và H. Becquerel.
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1911).

– Linus Pauling:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1954)
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1962).

– John Bardeen:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1956) cùng với W. H. Brattain và W. Shokley.
+ Đoạt giải thưởng Nobel Vật lý (năm 1972) cùng với L. Cooper và J. R. Schrieffer.

– Frederic Sanger:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1958)
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hóa học (năm 1980) cùng với W. Gilbert.

Các tổ chức quốc tế đoạt giải thưởng Nobel:

– Ủy ban Chữ Thập đỏ Quốc tế:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1917);
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1944);
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1963).

– Cơ quan Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn:

+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1954);
+ Đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1981).

Những người đoạt giải thưởng Nobel nhưng không nhận:

+ Nhà văn Jean Paul Sartre, đoạt giải thưởng Nobel Văn học (năm 1964).

+ Ông Lê Đức Thọ, đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình (năm 1973).

+ Nhà văn Boris Pasternak, đoạt giải thưởng Nobel Văn học (năm 1958).

Theo TTXVN, Tuổi trẻ

Danh sách những người đã đạt giải Nobel Hoá Học

TRƯỚC ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI II

1901 Jacobus H. van’t Hoff (1852-1911) Hà Lan
Khám phá luật Động Hoá học và áp suất thẩm thấu trong các dung dịch
1902 Hermann Emil Fischer (1852-1919) Đức
Khảo cứu về sự tổng hợp các nhóm đường và purine

1903 Svante A. Arrhenius (1859-1927) Sweden
Thuyết điện ly (theory of electrolytic dissociation)

1904 Sir William Ramsay (1852-1916) Anh
Khám phá các khí hiếm (noble gases) trong không khí và xác định vị trí của chúng trong bảng phân loại tuần hoàn

1905 Adolf von Baeyer (1835-1917) Germany
Để phát triển hóa Hữu cơ Cơ cấu và hóa Kỹ nghệ. Công trình trên chất phẩm nhuộm và các hợp chất hydrocarbur thơm

1906 Henri Moissan (1852-1907) France
Nghiên cứu và cách ly chất Fluor và cho ra lò điện phục vụ cho khoa học (điều chế acetylene từ carbur calcium)

1907 Eduard Buchner (1860-1917) Germany
Nghiên cứu về Sinh Hóa . Khám phá sự lên men không tế bào (fermentation without cells)

1908 Sir Ernest Rutherford (1871-1937) Anh
Nghiên cứu trên sự phân rã các nguyên tố (Decay of the elements) và hóa học các hợp chất phóng xạ (chemistry of radioactive substances)

1909 Wilhelm Ostwald (1853-1932) Germany
Công trình nghiên cứu chất xúc tác, cân bằng hóa học và vận tốc phản ứng

1910 Otto Wallach (1847-1931) Germany
Phát triển ngành hóa Hữu cơ và kỹ nghệ hóa học nhờ các công trình sơ khởi trong lãnh vực các hợp chất alicyclic

1911 Marie Curie (1867-1934, gốc Poland) France Khám phá chất radium và polonium

1912 Victor Grignard (1871-1935) and Paul Sabatier (1854-1941)- France
Khám phá ra chất phản ứng Grignard (réactif Grignard,các organomagnésien) nhờ đó ngành hóa hữu cơ phát triển mạnh
-Hydrogen hóa các hợp chất hữu cơ với sự hiện diện của các kim loại

1913 Alfred Werner (1866-1919) Thụy Sĩ
Nối giữa các nguyên tử trong phân tử (Hóa vô cơ)

1914 Theodore W. Richards (1868-1928) USA
Xác định khối lượng nguyên tử

1915 Richard M. Willstätter (1872-1942) Germany
Nghiên cứu sắc tố của cây, đặc biệt chất chlorophyl (diệp lục tố)
1916
1917
1918 Fritz Haber (1868-1934) Germany
Tổng hợp ammoniac từ các nguyên tố
1919
1920 Walther H. Nernst (1864-1941) Germany
Nghiên cứu trên Nhiệt động học (Studies on thermodynamics)

1921 Frederick Soddy (1877-1956) Anh
Hóa học về các hợp chất phóng xạ, sự xuất hiện và bản chất của các chất đồng vị.

1922 Francis W. Aston (1877-1945) Anh
Khám phá nhiều chất đồng vị, khối lượng và phổ ký khối (mass spectrograph)

1923 Fritz Pregl (1869-1930) Austria
Microanalysis of organic compounds
1924
1925 Richard A. Zsigmondy (1865-1929, gốc Đức) Austria Chứng minh tính không đồng nhất của dung dịch keo và những phương pháp ông đã dùng, những phương pháp dựa trên căn bản của hóa học về chất keo (Colloid chemistry, ultramicroscope)

1926 Theodor Svedberg (1884-1971) Sweden
Disperse systems (ultracentrifuge)

1927 Heinrich O. Wieland (1877-1957) Germany
Constitution of bile acids
1928 Adolf O. R. Windaus (1876-1959) Germany
Nghiên cứu về sự cấu tạo sterol và sự liên quan của chúng với các vitamin (vitamin D)
1929 Sir Arthur Harden (1865-1940)
Hans von Euler-Chelpin (1873-1964, gốc Sweden) Anh
Germany Nghiên cứu sự lên men các chất đường và các enzyme tham dự vô sự lên men
1930 Hans Fischer (1881-1945) Germany Nghiên cứu máu và sắc tố thực vật, cấu tạo chất hemin và chlorophyl và đặc biệt sự tổng hợp hemin
1931 Friedrich Bergius (1884-1949)
Karl Bosch (1874-1940) Germany
Germany Khai triển quá trình áp suất cao trong hóa học
1932 Irving Langmuir (1881-1957) USA Surface chemistry
1933
1934 Harold C. Urey (1893-1981) USA Khám phá Hydrogen nặng (deterium)
1935 Jean Frédéric Joliot (1900-1958
Irène Joliot-Curie (1897-1956) France
France Tổng hợp những nguyên tố phóng xạ nhân tạo mới
1936 Peter J. W. Debye (gốc Hà Lan, 1884-1966) Germany Nghiên cứu momen lưỡng cực (momen điện phân tử) và trên sự nhiễu xạ tia X và tia điện tử bởi chất khí
1937 Walter N. Haworth (1883-1950)
Paul Karrer (1889-1971) Anh
Thụy Sĩ Nghiên cứu carbohydrat và vitamin C
Nghiên cứu carotenoids, flavins, vitamins A và B2
1938 Richard Kuhn (1900-1967) Germany Nghiên cứu carotenoids và vitamins
1939 Adolf F. J. Butenandt (1903-1995)
Leopold Ruzicka (1887-1976) Germany
Thụy Sĩ Nghiên cứu kích thích tố giới tính
Nghiên cứu polymethylenes và cơ cấu terpenes
1940
1941
1942
1943 Georg de Hevesy (1885-1966) Hungary Áp dụng của chất đồng vị như một chất chỉ thị (indicator) trong sự khảo cứu quá trình hóa học

SAU ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI II , LÚC NÀY KHOA HỌC THẾ GIỚI CÓ NHIỀU BƯỚC CHUYỂN MẠNH

1944 Otto Hahn (1879-1968) Germany Khám phá sự phân hạch cùa nguyên tử (nuclear fission of atoms)
1945 Artturi I. Virtanen (1895-1973) Finland Khám phá trong lãnh vực hóa học nông nghiệp và thực phẩm, đặc biệt tìm ra cách bảo quản rơm
1946 James B. Sumner (1887-1955)

John H. Northrop (1891-1987)
Wendell M. Stanley (1904-1971)
USA
USA
USA Khám phá khả năng kết tinh enzym

Điều chế enzym và protein của virus dưới dạng tinh chất

1947 Sir Robert Robinson (1886-1975) Anh Nghiên cứu sản phẩm thực vật , đặc biệt chất alkaloids
1948 Arne W. K. Tiselius (1902-1971) Sweden Phân tích bằng cách dùng điện điện di và sự thẩm thấu (electrophoresis and adsorption), những khám phá tính dị nguyên (heterogenous) của các protein huyết thanh (serum proteins)
1949 William F. Giauque (1895-1982) USA Đóng góp cho nhiệt động hóa học, tính chất của các chất khi ở nhiệt độ vô cùng thấp (sự khử từ đoạn nhiệt, adiabatic demagnetization)
1950 Kurt Alder (1902-1958)

Otto P. H. Diels (1876-1954)
Germany
Germany Khám phá và khai triển tổng hợp nối đôi và những kiểu phản ứng trên nối đôi

Diễn tả và sự quan trọng của sườn căn bản thơm của các Steroids (Aromatic Basic Skeleton of the Steroids)
1951 Edwin M. McMillan (1907-1991)
Glenn T. Seaborg (1912-1999) USA
USA Khám phá trong hóa học các nguyên tố siêu uranium (transuranium elements)
1952 Archer J. P. Martin (1910-
Richard L. M. Synge (1914-1994) Anh
Anh Phát minh máy distribution chromatography
1953 Hermann Staudinger (1881-1965) Germany Những khám phá trong lãnh vực hóa đại phân tử (macromolecular chemistry)
1954 Linus C. Pauling (1901-1994) USA Nghiên cứu tính chất của nối hóa học (chemical bond) và làm sáng tỏ cấu trúc phân tử phức tạp của các protein
1955 Vincent du Vigneaud (1901-1978) USA Nghiên cứu trên tính chất sinh hóa các hợp chất quan trọng của lưu huỳnh. Lần đầu tiên tổng hợp được kích thích tố polypeptide
1956 Sir Cyril N. Hinshelwood (1897-1957)
Nikolai N. Semenov (1896-1986) Anh
Liên Xô Cơ chế của những phản ứng hóa học (Mechanisms of chemical reactions)
1957 Sir Alexander R. Todd (1907-1997) Anh Nghiên cứu các nucleotides và coenzymes của chúng
1958 Frederick Sanger (1918- Anh Cấu trúc của proteins, đặc biệt insulin
1959 Jaroslav Heyrovsky1890-1967) Czech Republic Khám phá và khai triển phương pháp phân tích cực phổ (Polarography)
1960 Willard F. Libby (1908-1980) USA Khám phá chất phóng xạ Carbon14 dùng để định tuổi trong khảo cổ học, địa chất học, địa vật lý (radiocarbon dating)
1961 Melvin Calvin (1911-1997) USA Nghiên cứu sự hập thu acid carbonic của cây (photosynthesis)
1962 John C. Kendrew (1917-
Max F. Perutz (1914- gốc Anh) Anh
Áo Nghiên cứu cấu trúc của globulin proteins
1963 Giulio Natta (1903-1979)
Karl Ziegler (1898-1973) Italy
Germany Hóa học và công nghệ các chất cao polymer (high polymers)
1964 Dorothy Crowfoot-Hodgkin (1910-1994) Anh Xác định cấu trúc của các hợp chất sinh học quan trọng nhờ tia X
1965 Robert B. Woodward (1917-1979) USA Tổng hợp các chất hữu cơ thiên nhiên như quinine…
1966 Robert S. Mulliken (1898-1986) USA Nghiên cứu các nối hóa học và cơ cấu điện tử của các phân tử bằng cách dùng phương pháp quỹ đạo các phân tử ( orbital method)
1967 Manfred Eigen (1927-)
Ronald G. W. Norrish (1897-1978)
George Porter (1920) Germany
Anh
Anh Nghiên cứu các phản ứng hóa học vô cùng nhanh nhờ làm rối loạn sự cân bằng khi dùng các xung năng lượng rất ngắn (disturbing the equilibrium by means of very short pulses of energy)
1968 Lars Onsager (1903-1976) USA Norway Nghiên cứu nhiệt động học của quá trình không thuận nghịch (thermodynamics of irreversible processes)
1969 Derek H. R. Barton (1918-1998)
Odd Hassel (1897-1981) Anh
Norway Khai triển quan niệm về hình dạng các phân tử hữu cơ trong không gian (dạng ghế, thuyển) và áp dụng trong hóa học
1970 Luis F. Leloir (1906-1987) Argentina Khám phá đường nucleotides và vai trò của chúng trong sự sinh tổng hợp của carbohydrates ( biosynthesis of carbohydrates
1971 Gerhard Herzberg (1904-1999) Canada Cấu trúc của electron và hình học các phân tử, đặc biệt các gốc tự do (free radicals, molecular spectroscopy)
1972 Christian B. Anfinsen (1916-1995)
Stanford Moore (1913-1982)
William H. Stein (1911-1980) USA
USA
USA Nghiên cứu enzym ribonuclease

Nghiên cứu sự liên quan giữa cơ cấu hóa học và tính xúc tác của trung tâm hoạt tính của ribonuclease
1973 Ernst Otto Fischer (1918)
Geoffrey Wilkinson (1921) Germany
Anh Hoá hữu cơ kim loại với cơ cấu hợp chất kiểu bánh kẹp sandwich (Chemistry of metal-organic sandwich compounds)
1974 Paul J. Flory (1910-1985) USA Hóa lý các chất đại phân tử (Physical chemistry of macromolecules)
1975 Sir John Cornforth (1917, gốc Australia)

Vladimir Prelog (1906-1998, gốc Yugoslavia)
Anh
Thụy Sĩ Hóa lập thể của các phản ứng dùng chất xúc tác là những enzyme hữu cơ (Stereochemistry of enzyme catalysis reactions)

Nghiên cứu hóa lập thể các phân tử hữu cơ và phản ứng của chúng
1976 William N. Lipscomb (1919) USA Cấu trúc của boranes và giải thích tính chất của nối hóa học phức tạp của chúng
1977 Ilya Prigogine (1917) Belgium Đóng góp cho ngành nhiệt động học những quá trình không thẳng hàng và không thuận nghịch, đặc biệt cho thuyết cấu trúc phân rã ( theory of dissipative structures) có ích cho nhiều ngành
1978 Peter Mitchell (1920-1992) Anh Nghiên cứu sự truyền năng lượng sinh học ( biological energy transfer), khai triển thuyết thẩm thấu hóa học (chemiosmotic theory)
1979 Herbert C. Brown (1912)
George Wittig (1897-1987) USA
Germany Khai triển các hợp chất Bor hữu cơ và các hợp chất phospho chứa nhiều tác nhân trong sự tổng hợp hữu cơ
1980 Paul Berg (1926)
Walter Gilbert (1932)
Frederick Sanger (1918)
USA
USA
Anh Nghiên cứu sinh hóa của nucleic acids, đặc biệt Berg là người đầu tiên làm ra phân tử chứa một phần gen người và một phần gen vi khuẩn nhờ hóa chất (kỹ thuật giải phẫu gen)

Xác định các base sequences (các đoạn nhỏ DNA) trong nucleic acids (DNA) nhờ dùng các DNA của virus và vi khuẩn

1981 Kenichi Fukui (1918-1998)Japan
Roald Hoffmann (1937) USA
Thuyết về sự tiến triển của các phản ứng hóa học. (biên giới của orbital theory) (1)
1982 Aaron Klug (1926) Nam Phi
Phát triển các phương pháp tinh thể học (crystallographic) để giải thích cấu trúc các protein của acid nucleic phức tạp quan trọng.

1983 Henry Taube (1915) Canada
Cơ chế phản ứng của sự di chuyển các electrons , đặc biệt với các chất phức tạp kim loại (metal complexes)

1984 Robert Bruce Merrifield (1921) USA
Phương pháp điều chế peptides và proteins

1985 Herbert A. Hauptman (1917),Jerome Karle (1918) USA
Phát triển phương pháp trực tiếp đê xác định cấu trúc các tinh thể

1986 Dudley Herschbach (1932)and Yuan T. Lee (1936)-USA,
John C. Polanyi (1929) Canada
Động học về các quá trình hóa học cơ bản

1987 Donald J. Cram (1919)USA
Charles J. Pedersen (1904-1989)USA
Jean-Marie Lehn (1939) France
Sự khai triển và cách dùng của những phân tử có tương tác cấu trúc đặc biệt với sự chọn lựa kỹ

1988 Johann Deisenhofer (1943)
Robert Huber (1937)
Hartmut Michel (1948) Germany
Nghiên cứu trên cấu trúc protein dùng trong quang hợp: xác định cấu trúc 3 chiều của trung tâm phản ứng quang hợp (photosynthetic reaction center)

1989 Thomas R. Cech (1947)
Sidney Altman (1939) USA
USA Khám phá tính chất xúc tác của RNA (ribonucleic acid)
1990 Elias James Corey (1928) USA

Phát triển phương pháp mới cho sự tổng hợp các hợp chất hữu cơ thiên nhiên (retrosynthetic analysis)

1991 Richard R. Ernst (1933) Thụy Sĩ
Phát triển phương pháp học cho phổ cộng hưởng từ hạch tâm với độ phân giải cao(high resolution nuclear magnetic resonance spectroscopy, NMR)

1992 Rudolph A. Marcus (1923, gốc Canada) USA
Thuyết về sự truyền điện tử Theories of electron transfer

1993 Kary B. Mullis (1944)USA
Michael Smith (1932, gốc Anh)Canada
Phát minh phương pháp polymerase chain reaction (PCR) để cấy DNA

Công trình cơ bản trên nguồn gốc sự đột biến (mutagenesis) căn cứ trên việc dùng các oligonucleotides và áp dụng sự đột biến để nghiên cứu các proteines

1994 George A. Olah (1927) USA
Sáng chế phương pháp để làm các carbocations bền để nghiên cứu cấu trúc, độ bền và phản ứng của chúng bằng phương pháp phổ học

1995 Paul Crutzen (1933) HALAN
Mario Molina (1943, gốc Mexico)USA
F. Sherwood Rowland (1927) USA
Công trình về hóa học khí quyển:sự cân bằng ozone trong khí quyển, đặc biệt về sự tạo thành và phân hủy của ozone bởi các gốc tự do.

1996 Harold W. Kroto (1939)Anh
Robert F. Curl, Jr. (1933)USA
Richard E. Smalley (1943) USA
Khám phá fullerenes

1997 Paul D. Boyer (1918)USA
John E. Walker (1941)Anh
Jens C. Skou (1918)Dan Mạch
Làm sáng tỏ cơ chế dùng enzym để tổng hợp adenosine triphosphate (ATP)
Người khám phá ra đầu tiên ion mang enzyme là ion Na+, K+-ATPase
1998 Walter Kohn (1923)USA
John A. Pople (1925-2004)Anh
Khai triển thuyết density-functional để nghiên cứu cơ chế phản ứng hóa học bằng enzymes, thí dụ khi nước dược biến đổi thành oxygen trong sự quang hợp

Phát triển phương pháp kỹ thuật máy tính trong hóa lượng tử (quantum chemistry, GAUSSIAN computer programs) phục vụ cho việc kiểm tra và xác định cấu trúc hóa học và những chi tiết của vật chất

1999 Ahmed H. Zewail (1946, gốc Egypt) USA
Nghiên cứu những giai đoạn chuyển tiếp cùa các phản ứng hóa học bằng cách dùng máy chụp hình laser cực nhanh, bằng 10-15 giây máy femtosecond spectroscopy
2000 Alan J. Heeger ( 1936)USA
Alan G. MacDiarmid (1927)USA
Hideki Shirakawa (1936) Japan
Khám phá và phát triển các chất nhựa dẫn điện (conductive polymers)

2001 William S. Knowles (1917)USA
Ryoji Noyori (1938)Japan
K. Barry Sharpless (1941)USA

Nghiên cứu những phản ứng hydrogen hóa xúc tác bởi chất triền quang (chirally catalysed hydrogenation reactions)

Nghiên cứu những phản ứng oxd hóa xúc tác bởi chất triền quang (chirally catalysed

2002 John B. Fenn (1917)USA
Koichi Tanaka (1959)Japan
Kurt Wüthrich (1938)Thụy Sĩ

Phát triển những phương pháp ion hóa về giải hấp nhẹ cho sự phân tích phổ khối lượng của các chất đại phân tử trong sinh học

phát triển phổ từ cộng hưởng hạch tâm để xác định cấu trúc không gian ba chiểu của chất đại phân tử trong sinh học

John A. Pople (1925-2004)USA

Anh

Khai triển thuyết density-functional để nghiên cứu cơ chế phản ứng hóa học bằng enzymes, thí dụ khi nước dược biến đổi thành oxygen trong sự quang hợp

Phát triển phương pháp kỹ thuật máy tính trong hóa lượng tử (quantum chemistry, GAUSSIAN computer programs) phục vụ cho việc kiểm tra và xác định cấu trúc hóa học và những chi tiết của vật chất
1999 Ahmed H. Zewail (1946, gốc Egypt) USA Nghiên cứu những giai đoạn chuyển tiếp cùa các phản ứng hóa học bằng cách dùng máy chụp hình laser cực nhanh, bằng 10-15 giây máy femtosecond spectroscopy
2000 Alan J. Heeger ( 1936)
Alan G. MacDiarmid (1927)
Hideki Shirakawa (1936) USA
USA
Japan Khám phá và phát triển các chất nhựa dẫn điện (conductive polymers)
2001 William S. Knowles (1917)
Ryoji Noyori (1938)

K. Barry Sharpless (1941)
USA
Japan
USA Nghiên cứu những phản ứng hydrogen hóa xúc tác bởi chất triền quang (chirally catalysed hydrogenation reactions)

Nghiên cứu những phản ứng oxd hóa xúc tác bởi chất triền quang (chirally catalysed
2002 John B. Fenn (1917)
Koichi Tanaka (1959)

Kurt Wüthrich (1938)
USA
Japan
Thụy Sĩ Phát triển những phương pháp ion hóa về giải hấp nhẹ cho sự phân tích phổ khối lượng của các chất đại phân tử trong sinh học

phát triển phổ từ cộng hưởng hạch tâm để xác định cấu trúc không gian ba chiểu của chất đại phân tử trong sinh học

2003 Peter Agre (1949),Roderick MacKinnon (1956)USA

Khảo sát các đường dẫn nước và ions trong các tế bào sinh vật:

Khám phá các kênh (channels) trong màng tế bào

Khám phá những kênh nước Discoveries concerning channels in cell membranes:

Cấu trúc và nghiên cứu cơ chế của ion kênh .

Nobel Hoá Học 2004

Aaron Ciechanover và Avram Hershko (người Israel) cùng với Irwin Rose vào những năm 1980 đã khám phá ra rằng các tế bào sẽ tặng một “nụ hôn tử thần” lên những protein mà hệ miễn dịch sẽ phải tiêu diệt. Các protein bị đánh dấu này sau đó bị hệ miễn dịch “chặt” ra nhiều mảnh nhỏ.

Sự “thủ tiêu protein có chủ định” chi phối nhiều quá trình trong cơ thể như phân chia tế bào, sửa chữa ADN và kiểm soát chất lượng của việc sản xuất protein mới, là những quá trình phòng thủ quan trọng của hệ miễn dịch.

“Khi quá trình tiêu hủy protein gặp trục trặc, chúng ta sẽ bị ốm. Hai ví dụ cho trường hợp này là chứng ung thư họng và xơ hóa u nang”, Hội đồng trao giải cho nhận định, đồng thời bổ sung thêm rằng những phát kiến của ba nhà khoa học đã “tạo ra cơ hội để phát triển những loại thuốc chống lại các căn bệnh này”.

Ciechanover, 57 tuổi, là giám đốc của Viện nghiên cứu Y khoa Rappaport Family tại Technion ở Haifa, Israel, trong khi Hershko, 67 tuổi, gốc Hungary, là một giáo sư ở đó.

Rose là một chuyên gia tại phòng sinh lý học và lý sinh, thuộc trường Y, Đại học tổng hợp Irvine, bang California, Mỹ.
Xem ảnh :
Avram Hershko (trái) và Aaron Ciechanover.

Nobel Hoá Học 2005

Giải Nobel Hóa học năm nay được chia đều cho 3 ba nhà khoa học: giáo sư Yves Chauvin (người Pháp), giáo sư Robert H. Grubbs thuộc Viện công nghệ California và giáo sư Richard R. Schrock thuộc Viện công nghệ Massachusetts, Hoa Kỳ. Cả ba ông đều đã góp công phát triển phương pháp hoán vị trong tổng hợp các hợp chất hữu cơ.

Phương pháp hoán vị đã trở thành một trong những phương pháp được ứng dụng rộng rãi nhất trong hóa học hữu cơ. Nó cho phép tổng hợp nhân tạo các hợp chất quan trọng như các dược phẩm… Trong phản ứng hoán vị, người ta sử dụng các chất xúc tác đặc biệt để bẻ gãy cũng như tạo ra các nối đôi giữa các nguyên tử carbon, điều này dẫn đến sự thay đổi vị trí của các nhóm phân tử.

Phương pháp này có nhiều ưu điểm nổi bật như: hiệu suất tổng hợp cao (phản ứng ít giai đoạn hơn, cần ít nguyên liệu hơn, sinh ra ít chất thải hơn), dễ sử dụng (xúc tác bền trong không khí ở nhiệt độ và áp suất thường) và thân thiện với môi trường (dung môi và các chất thải ít độc hại).

Được biết, từ năm 1971 giáo sư Yves Chauvin đã có thể mô tả một cách chi tiết các diễn biến của phản ứng hoán vị và đã dự đoán được những loại xúc tác cần cho phản ứng này. Giáo sư Richard Schrock là ngưòi đầu tiên tạo ra được một chất xúc tác kim loại cực kỳ hiệu quả cho phản ứng hoán vị vào năm 1990. Hai năm sau, giáo sư Robert Grubbs đã tìm ra một xúc tác có nhiều ưu điểm hơn, có độ bền cao trong không khí và chất này đã nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi.

Phản ứng hoán vị là một bước tiến lớn đưa con người đến gần với mục tiêu “hóa học xanh”. Ngày nay, phản ứng này được ứng dụng chủ yếu trong công nghiệp dược phẩm và vật liệu polymer cao cấp.

Gần nửa thế kỷ sau khi cha mình đoạt giải Nobel, giáo sư người Mỹ Roger D. Kornberg cũng giành được giải Nobel Hoá học năm nay nhờ nghiên cứu về việc tế bào lấy thông tin từ gene như thế nào để tạo ra protein.

Công trình nghiên cứu tế bào đoạt giải Nobel Hoá học 2006

Roger D. Kornberg (phải) và người cha của mình.
Roger D. Kornberg (phải) và người cha của mình. (Ảnh: AP)

Công trình của ông tạo ra một bức tranh chi tiết về quá trình này, gọi là quá trình đọc chép, Viện hàn lâm khoa học hoàng gia của Thuỵ Điển cho biết. Những xáo trộn trong quá trình đọc chép này xảy ra trong rất nhiều căn bệnh của con người, bao gồm ung thư, bệnh tim và nhiều loại viêm nhiễm khác. Phát hiện của Kornberg đã giúp đặt nền tảng cho việc phát triển nhiều loại thuốc chống những căn bệnh này.Phát biểu tại buổi họp báo, Kornberg cũng cho biết: “Sẽ có những biện pháp chữa trị đặc hiệu cho một vài căn bệnh trong thập kỷ tới”.

Quá trình đọc chép giúp gene nhận ra protein nào mà tế bào sản xuất. Trong quá trình này, thông tin từ gene sẽ được sử dụng để tạo ra các phân tử gọi là “sứ giả ARN“. Những phân tử này sẽ chuyển thông tin tới cỗ máy chế tạo protein trong tế bào. Ngược lại, protein cũng hoạt động như kết cấu của tế bào giúp tế bào vận hành một cách có hiệu quả.

“Nhờ sự khéo léo của mình, Kornberg đã có thể đóng băng giữa chừng quá trình xây dựng ARN. Nhờ đó ông có thể ghi lại được toàn bộ quá trình đọc chép đó và tạo nên một cuộc cách mạng thực sự”, hội đồng trao giải phát biểu.

Nhà khoa học 59 tuổi là thành viên của Trường y thuộc Đại học Stanford ở Palo Alto, California. Cha của ông là Arthur Kornberg cũng đã giành giải Nobel Y học vào năm 1959 nhờ công trình về di truyền học.

Roger D. Kornberg là người duy nhất đạt giải về hoá học và là người Mỹ thứ năm đoạt giải Nobel năm nay. Giải Nobel Hoá học năm ngoái thuộc về Yves Chauvin người Pháp cùng Robert H. Grubbs và Richard R. Schrock người Mỹ, nhờ phát hiện ra cách làm giảm chất thải độc hại khi tạo ra các hoá chất mới.

M.T.

Theo AP, Vnexpress

Người Đức đoạt Nobel Hóa học 2007

Lao Động Điện tử Cập nhật: 5:45 PM, 10/10/2007
Giáo sư Gerhard Ertl đã đoạt giải Nobel Hóa học năm nay.
(LĐĐT) – Trái với các dự đoán, Nobel Hóa học 2007 đã được trao cho nhà khoa học người Đức Gerhard Ertl với công trình “Các tiến trình hóa học trên bề mặt chất rắn”.

Gerhard Ertl năm nay 71 tuổi, là giáo sư tại Viện Nghiên cứu Fritz-Haber thuộc trường Đại học Max-Planck, CHLB Đức.

Viện Khoa học hoàng gia Thụy Điển đánh giá, nghiên cứu của Ertl đã đặt nền móng cho ngành hóa học bề mặt hiện đại. Công trình của ông đã giúp giải thích pin nhiên liệu hoạt động ra sao, làm thế nào mà bộ phận ống xả có thể gạn lọc chất độc thải ra từ khói xe và thậm chí tại sao bàn là lại bị rỉ.

Cũng theo Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, Ertl đã mô tả một cách chi tiết quá trình xảy ra các phản ứng hóa học trên các bề mặt và nghiên cứu sâu một số bí ẩn cơ bản nhất của các quá trình ấy. Ông đã thu được những thành quả quan trọng trong một lĩnh vực đầy khó khăn, và những khám phá của ông có thể được ứng dụng cả trong nghiên cứu lý thuyết lẫn phát triển công nghiệp.

Phát biểu với báo giới sau lễ trao giải Nobel Hóa học, Ertl nói: “Đây là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất trong đời tôi”.

Giải Nobel Hóa học, cùng với các giải Nobel Vật lý, Y học, Văn học và Kinh tế (trị giá mỗi giải thưởng là 1,5 triệu USD) sẽ được nhà vua Thụy Điển Carl Gustaf XVI trao vào ngày 10.12 tại Stockholm (Thụy Điển), nhân kỷ niệm ngày mất của Afred Nobel.

2008


TTO – Hai nhà khoa học Mỹ và một nhà khoa học Nhật đã giành giải Nobel hóa học 2008 nhờ có công khám phá protein phát huỳnh quang xanh, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như y học, công nghệ sinh học và sinh học tế bào.

Theo Viện Hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển, ba nhà khoa học: Osamu Shimomura (Nhật Bản), Martin Chalfie (Mỹ) và Roger Tsien (Mỹ) đã được chọn trao giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu về protein phát huỳnh quang xanh, hay còn gọi là GFP (green fluorescent protein).

Protein này là một dụng cụ thí nghiệm được sử dụng khá rộng rãi giúp các nhà khoa học theo dõi các quá trình ở sinh vật sống, chẳng hạn quá trình phát triển của các tế bào não hoặc sự lây lan của các tế bào ung thư.

Nhà khoa học Shimomura lần đầu tiên phân lập được GFP từ một con sứa được tìm thấy ngoài khơi biển Bắc Mỹ vào năm 1962 và phát hiện rằng nó phát ánh sáng màu xanh lục dưới ánh sáng cực tím. Vào những năm 1990, Chalfie đã chứng minh GFP là “một chuỗi gen phát sáng”, sau đó Tsien đã khám phá cơ chế hoạt động của GFP.

Theo hội đồng xét giải, công trình nghiên cứu của bộ ba nói trên “cho phép các nhà khoa học theo dõi nhiều quá trình sinh học khác nhau vào cùng thời điểm”. Điều này có nghĩa là các nhà nghiên cứu có thể sử dụng GFP để theo dõi sự hư hại của tế bào thần kinh do ảnh hưởng của bệnh Alzheimer hoặc quan sát cách thức hình thành các tế bào beta sản sinh insulin ở tuyến tụy của bào thai đang phát triển.

Nhà khoa học Shimomura sinh năm 1928, đang công tác tại Phòng thí nghiệm sinh vật biển ở Woods Hole, Massachusetts và Trường ĐH Boston.

Nhà khoa học Chalfie sinh năm 1947, là giáo sư Trường ĐH Columbia ở New York, còn nhà khoa học Tsien sinh năm 1952, là giáo sư Trường ĐH California, San Diego.

Theo Tuổi trẻ online

Nobel Hóa học 2009 tôn vinh những nghiên cứu về ribosome
Nobel Hóa học 2009 đã được Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển công bố lúc 16h45 ngày 7/10 (giờ Việt Nam). Chủ nhân của giải thưởng năm nay là 3 nhà khoa học gồm: Venkatraman Ramakrishnan (sinh năm 1952 tại Ấn Độ, hiện mang quốc tịch Mỹ và là GS.TS tại Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử, Cambridge, Anh), Thomas A. Steitz (sinh năm 1940, người Mỹ, GS.TS về sinh học phân tử và hoá sinh, Đại học Yale, Mỹ) và Ada E. Yonath (sinh năm 1939, người Israel, hiện là GS.TS về sinh học cấu trúc tại Viện Khoa học Weizmann, Rehovot, Israel) – người phụ nữ thứ tư trong lịch sử giành giải Nobel Hóa học và là nhà khoa học nữ đầu tiên giành giải thưởng cao quý này kể từ năm 1964.
Trong thông cáo báo chí được đưa ra hôm 7/10, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển cho biết 3 nhà khoa học đoạt giải “vì những nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của ribosome” – những cứu về một trong những quy trình cốt lõi nhất của sự sống. Ribosome là một trong những thể hạt nhỏ, phức tạp, gồm các protein khác nhau và 3 phân tử axit ribonucleic, nó tổng hợp các protein trong tế bào. Ribosome tạo ra các protein để kiểm soát về hoá học mọi cơ thể sống. Do các ribosome là thiết yếu cho sự sống, nên chúng còn là đối tượng chính cho nghiên cứu các thuốc kháng sinh mới. Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tuyên bố phát hiện về ribosome của 3 nhà khoa học trên giúp giới khoa học hiểu rõ hơn về sự sống và phát triển thành công nhiều loại thuốc kháng sinh mới để điều trị nhiều chứng bệnh khác nhau.

Venkatraman Ramakrishnan, Thomas A. Steitz và Ada E. Yonath đã chỉ rõ được cấu trúc và chức năng của ribosome là như thế nào ở cấp độ nguyên tử. Cả 3 nhà khoa học đều sử dụng phương pháp được gọi là vẽ biểu đồ tinh thể bằng X quang (X-ray crystallography) để xác định vị trí của hằng trăm ngàn nguyên tử tạo thành ribosome được coi là cơ sở sản xuất protein của tế bào.

Trong mọi tế bào của mọi cơ thể sống đều có các phân tử ADN. Chúng chứa đựng các các “bản thiết kế” (blueprints) để cho thấy một con người, một loại cây hay một vi khuẩn trông như thế nào và hoạt động thế nào. Các blueprint được biến đổi thông qua hoạt động của các ribosomes. Dựa trên thông tin trong ADN, các ribosomes tạo ra protein như haemoglobin vận chuyển oxy, các kháng thể của hệ miễn dịch, các hoóc môn như insulin, collagen của da… Có hàng chục ngàn protein trong cơ thể và chúng có những dạng và chức năng khác nhau. Chúng hình thành và kiểm soát sự sống ở cấp độ hoá học.

Hiểu biết về hoạt động bên trong của ribosome là rất quan trọng đối với khoa học sự sống. Những hiểu biết này có thể ứng dụng ngay vào thực tiễn, nhiều loại thuốc kháng sinh ngày nay điều trị nhiều căn bệnh bằng cách ngăn chặn chức năng của các ribosome của vi khuẩn. Khi không có các ribosome chức năng, vi khuẩn không thể sống được. Điều này giải thích vì sao các ribosome là “mục tiêu” quan trọng cho các loại thuốc kháng sinh mới.

3 nhà khoa học được vinh danh năm nay đã tạo ra các mô hình 3 chiều (3D) để chỉ ra rằng các loại thuốc kháng sinh khác nhau đã làm tê liệt chức năng của ribosome trong tế bào vi khuẩn như thế nào, khiến vi khuẩn không thể sản xuất những loại protein cần thiết để tồn tại. Các mô hình này hiện nay được nhiều nhà khoa học khác sử dụng để phát triển các thuốc kháng sinh mới nhằm điều trị những căn bệnh viêm nhiễm khó chữa do vi khuẩn gây nên.

Giải thưởng 1,4 triệu USD được chia đều cho 3 nhà nghiên cứu. Mỗi người cũng được trao một giấy chứng nhận và một giấy mời tới dự Lễ trao Giải thưởng tại Stockholm, Thụy Điển vào ngày 10/12 tới.

NACESTI (theo http://nobelprize.org)

Chính Alfred Nobel cũng là nhà phát minh có tài

Chính con người đã hiến tặng 94% tài sản của mình để sáng lập ra “Giải thưởng Nobel” nhằm tôn vinh những sáng tạo cống hiến cho loài người – Alfred Nobel, gần 150 năm trước cũng là một nhà sáng chế phát minh có tài.

Alfred Nobel sinh ngày 21, tháng Mười, năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển. Ông là người con thứ ba trong gia đình có truyền thống về kỹ thuật và hóa học.


Alfred Nobel

Cha ông, Immanuel Nobel, người đã phát minh ra công nghệ ép gỗ hiện đại và có những cải tiến thủy lôi, giúp cho Nga có những lợi thế trên biển trong cuộc Chiến tranh Crimean. Anh trai ông, Lugvic Nobel, trùm dầu mỏ ở Baku, chế tạo thành công thùng chứa và đường ống dẫn dầu.

Gia đình ông còn sở hữu một nhà máy lớn sản xuất khí tài cho quân đội Nga tại Helenborg, Stockholm. Tuy vậy, sau thất bại của Đế quốc Nga trong cuộc chiến tranh Crimean, Sa hoàng Aleksandr II đã quyết định cắt giảm ngân sách dành cho quân đội và điều này đã làm cho nhà máy của cha Nobel điêu đứng.
Một thời gian sau đó, Immanuel Nobel bắt đầu nghiên cứu chế tạo nitroglycerin, một loại chất hóa học mới có sức công phá lớn. Ông thường nghiên cứu cùng với các con trai mình tại nhà máy. Mặc dù vậy, nitroglycerin là hợp chất hóa học ở dạng lỏng, nhạy nổ và rất nguy hiểm. Chính điều này đã dẫn đến cái chết của em trai Nobel, Emil Oskar Nobel, trong một vụ nổ tại nhà máy khi Emil đang cố gắng điều chế nitroglycerin.

Điều này đã thôi thúc Alfred Nobel tìm ra cách chế tạo hợp chất hóa học này một cách an toàn hơn. Và sau những cố gắng không biết mệt mỏi cùng những hiểm nguy trong quá trình thí nghiệm, cuối cùng Alfred Nobel đã tìm ra phương pháp chế tạo an toàn nitroglycerin.

Dù vậy, nitroglycerin nguyên chất vẫn rất nguy hiểm. Một lần nữa, bài toán này lại thôi thúc Nobel tìm ra cách chế tạo một loại thuốc nổ mới từ nitroglycerin ở dạng an toàn hơn nữa. Cuối cùng, vào năm 1866, ông đã chế tạo thành công Dynamite, một loại thuốc nổ nitroglycerin an toàn. Sau khi công bố phát minh vĩ đại này, Nobel nhận được bằng sáng chế tại Anh vào 7/5/1867 và tại Thụy Điển vào 19/10/1867. Bằng công nhận sáng chế nitroglycerin của Nobel, năm 1864.


Phòng thí nghiệm hóa học. Ảnh minh họa.

Dynamite được bán ra thị trường đầu tiên là hỗn hợp dẻo của nitroglycerin và nitrocellulose. Loại thuốc nổ này được bán ở dạng gậy dài 20cm, đường kính 2.5cm hoặc một số kích cỡ khác, được kích nổ bằng ngòi dẫn. Đến năm 1868, Alfred Nobel đã thay nitrocellulose bằng đất tảo cát (tên khác: bọt biển) làm chất bán dẫn. Cải tiến này đã làm cho Dynamite trở nên ổn định hơn và được sử dụng một cách rộng rãi trong xây dựng và khai thác hầm mỏ. Sau này, ông còn phát minh ra một số loại thuốc súng nitroglycerin, nổi bật trong số đó là ballistite, một loại thuốc súng không khói.

Những phát minh này cộng với việc khai thác các giếng dầu ở Baku của anh em ông đã đem lại cho ông những khoản lợi nhuận kếch xù.

Năm 1888, một tờ báo của Pháp đã nhầm lẫn Nobel với cái chết của anh trai ông, Lugvic Nobel. Bản cáo phó “Nhà buôn cái chết đã chết” viết rằng: “Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết chết con người nhanh hơn bao giờ hết đã qua đời ngày hôm qua”. Đây được cho là cho là lý do chính cho sự phiền muộn của Nobel trong những năm cuối đời và khiến ông quyết định hiến tặng 94% tài sản của mình (khoảng 4,22 triệu USD khi đó) để sáng lập ra “Giải thưởng Nobel” nhằm tôn vinh những sáng tạo cống hiến cho loài người.

Alfred Nobel qua đời ngày 10, tháng 12, 1896 tại Sanremo, Ý, do một cơn đột quỵ. Nhiều năm sau cái chết của ông, người ta vẫn còn tranh cãi về công dụng của thuốc nổ dynamite cũng như sức tàn phá của nó trong chiến tranh. Nhưng một điều không thể phủ nhận rằng thuốc nổ dynamite của Nobel đã giải phóng sức lao động cho con người, tạo ra các bước tiến vượt bậc trong xây dựng đường xá cũng như việc khai thác hầm mỏ.

Theo Vietnamnet